THẬP MỤC NGƯU ĐỒ - (Chép Thiền Qua Tranh Chăn Trâu của Trúc Thiên)
Thập: 10.
Mục: Chăn, trông nom.
Ngưu: Con trâu.
Đồ: Bức vẽ. Có mục đích chỉ dẫn, chỉ đường.
Thập Mục Ngưu Đồ: 10 Tranh Chăn Trâu (The 10 Oxherding Pictures).
Tranh ra đời từ triều đại nào, dưới
ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được. Điều chắc chắn là tranh có
từ xa xưa lắm, ban đầu chỉ có 6 bức, sau thất lạc luôn. Măi đến từ đời nhà Tống,
thế kỷ 12, nhiều bộ tranh mới bắt đầu xuất hiện từ các ṭng lâm, thiền viện, phản
ảnh nhiều khuynh hướng khác nhau trong sự tu tập (reflecting many different
views of buddhist practice). Như vậy là không phải chỉ có 1 bộ, mà nhiều bộ
tranh chăn trâu khác nhau, tất cả đều đượm nhuần tinh thần Phật Giáo Bắc Truyền.
Trong số ấy hiện nay được truyền tụng nhất là tranh của 2 hoạ sĩ áo nâu Thanh
Cư và Quách Am. Quách Am (Kakuan, 1100-12002), pháp hiệu Sư Viễn,
phủ Thường Đức, Lương Sơn, ḍng Lâm Tế, đời thứ 15 kể từ Nam Nhạc; sư là đệ tử
của thiền sư Đại Tuỳ Tĩnh.
Tuy có nhiều bộ tranh, nhưng bộ nào
cũng như bộ nào, đều có 10 bức, mỗi bức có một bài tụng bằng thơ tứ tuyệt, và một
bài chú giải bằng văn xuôi. Đó là về h́nh thức. C̣n về tinh thần th́ tranh tuy
có nhiều, nhưng có thể xếp thành 2 loại: loại theo khuynh hướng Đại Thừa và loại
theo khuynh hướng Thiền Tông. Trong hai loại, tranh vẽ sai khác nhau hết nhưng
bài tụng và bài chú riêng cho mỗi loại vẫn không thay đổi.
Bài này giải thích chỉ Tranh Đại Thừa,
c̣n đối với Tranh Thiền Tông th́ học viên t́m hiểu ư nghĩa của chúng.
TRANH ĐẠI THỪA
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần
lượt qua từng bức hoạ, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan
dần xuống ḿnh, rồi chót đuôi. Đó là tượng trưng cho pháp TuTiệm. Theo pháp Tu Tiệm
th́ phải rất nhiều công phu mới tiến lên được từng nấc thang giác ngộ; nhờ công
phu, cái tâm vọng (the defiled mind) lần hồi gạn lọc được trần cấu (stains of
life) mà sáng lần lên, cũng như nhờ được d́u dắt mà con trâu hoang lâu ngày chầy
tháng thuần thục lần, và trắng lần lớp da đen dơ dáy.
C̣n về thứ lớp th́ bộ tranh Đại Thừa
nào cũng mở đầu bằng bức hoạ Chưa Chăn (Vị Mục) vẽ con trâu hoang, và khép lại
bằng bức hoạ Dứt Cả Hai (Song Dẫn), vẽ một ṿng tṛn tượng trưng cho Viên Giác. Song Dẫn là dứt hết cả hai: trâu và mục đồng,
tâm và cảnh; dứt được hết là hiển hiện ánh Chân Như.
NỘI DUNG
Đề tài chung của các loại tranh chăn
trâu là đường lối tu tập. Đường lối tuy nhiều song không ngoài việc bắt tâm. Tâm ở đây là con trâu. V́ có trâu nên có mục
đồng. V́ có tâm nên có cảnh. Tất cả cố gắng của Đại Thừa nhắm vào sự cột trâu,
tức là điều tâm vậy. Tâm là con trâu
hoang. Muốn trị nó phải dùng những biện pháp mạnh như đánh bằng roi, xỏ mũi bằng
dây ḷi tói v.v... Cũng vậy, muốn trị tâm, cần quy y, giữ giới cấm, phát tâm bồ
đề v.v... Lâu ngày chầy tháng, trâu trở nên thuần thục, tâm trở nên điều hoà.
Đó là bước đầu, diễn tả bằng 5 bức hoạ đầu, Chưa Chăn (Vị Mục), Mới Chăn (Sơ Điều),
Chịu Phép (Thọ Chế), Quày Đầu (Hồi Thủ), và Vâng Chịu (Tuần Phục). Đây là giai
đoạn Giới trong Giới-Định-Huệ.
Bức hoạ số 6, Không Ngại (Vô Ngại),
và bức hoạ số 7, Tha Hồ (Nhiệm Vận), là lúc tâm đă thuần thục, khỏi phải chăn
giữ. Tâm đă định, không gặp ǵ chướng ngại. Tâm định là ngăchấp
hết,
song vẫn c̣n pháp chấp.
Cần đi thêm bước nữa, khai thác Huệ đến
chỗ phá được pháp chấp, pháp cũng không mà ngă cũng không, trâu cũng mất mà người
cũng mất, cảnh cũng quên mà tâm cũng quên. Trước hết trâu mất c̣n người. Rồi
người cũng mất luôn. Đó là cảnh giới của Bồ
Tát được
diễn tả bằng 2 bức hoạ Cùng Quên (Tương Vong) và Soi Riêng (Độc Chiếu).
Từ đó đi thêm bước nữa vào cảnh giới Như Lai, không nói được nên lời mà chỉ có thể h́nh
dung bằng một ṿng tṛn Viên Giác. Đó là ư nghĩa của bức tranh chót, Dứt Cả Hai
(Song Dẫn), khép lại quá tŕnh tu chứng theo Tiệm
Giáo;
đi từ Giới đến Định và Huệ; từ Thanh
Văn, Duyên Giác đến
Bồ tát, Phật; từ hữu tâm đến tâm rồi vô
tâm.
Tóm lại Thập Mục Ngưu Đồ vẽ lại quá
tŕnh công phu của người học đạo, trước hết tự thắng bản năng ḿnh, sau đến tự
tri, cuối cùng chỉ để tự tại thôi (simply as is). Cái ṿng tṛn cuối cùng
(tranh số 10: Song Dẫn) tượng trưng sự đoạn tuyệt với tất cả những nếp suy tư của
chúng ta, cắt dứt hẳn mọi trạng thái ư thức và hiện hữu thông thường.
TRANH CHĂN TRÂU VÀ TIẾN TR̀NH TU HỌC CỦA HUYNH TRƯỞNG
Tiến tŕnh tu học của Huynh Trưởng được
xây dựng trên từng bước như Thập Mục Ngưu Đồ. Chúng ta phát tâm lập nguyện truy
t́m và chứng nghiệm tự tánh bằng cách xả bỏ tham ái chấp thủ, hành thiện khử
ác. Chúng ta an trú trong chánh niệm, làm chủ ḿnh, tiêu trừ điên đảo vọng tưởng,
đi vào Định, thể nhập chân tánh mà vượt thoát luân hồi. Sau đó hai bức tranh số
9 và 10 của Thiền Tông, Trở Về Nguồn Cội và Thơng Tay Vào Chợ, tŕnh bày rơ hơn
(là Tranh Đại Thừa) lư tưởng sau cùng của Huynh Trưởng là tự tại với sinh tử,
rong chơi trong phiền năo, và hành bồ tát hạnh độ sanh3.
KẾT LUẬN
Phước Châu Đại An:
- Tôi khao khát hiểu Phật Pháp, đó
như cái ǵ ?
Bách Trượng Hoài Hải:
- Hệt như cưỡi trâu t́m trâu.
Phước Châu Đại An:
- Hiểu (Phật Pháp) rồi th́ như thế
nào ?
Bách Trượng Hoài Hải:
- Như người cưỡi trâu về nhà.
Phước Châu Đại An:
- Rồi làm sao cho trước sau khế hợp ?
Bách Trượng Hoài Hải:
- Như người chăn trâu cầm roi giữ
trâu ḿnh không cho phạm đến lúa mạ của
người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thiền Qua Tranh Chăn Trâu
Trúc Thiên sưu tập trước 1972
Phụ lục do Tuệ Sỹ 1972
Chùa Khánh Anh, Bagneux France, ấn
hành.
2. Zen Flesh, Zen Bones
Sưu tập bởi Paul Reps
Pelican Books 1982.
3. Tài Liệu Tu Học Bậc Tŕ
Ban Hướng Dẫn Trung Ương GĐPTVN phát
hành.
TÀI LIỆU LIÊN HỆ
1. Le Judo International
Liên Đoàn Nhu Đạo Pháp
J. L. Jagarin sao lục.
2. Phật Học Tinh Hoa, phần phụ lục
Nguyễn Duy Cần.
3. Học Làm Phật
Thích Trường Lạc
Chùa
Linh Chưởng ấn hành 1964
MƯỜI TRANH CHĂN TRÂU
Thập Mục Ngưu Đồ
Dẫn Nhập : Tranh Chăn Trâu - Mục Ngưu Đồ
- có từ thời Lăo Tử xa xưa nhưng măi đến thế kỷ thứ XII đời nhà Tống
(960-1279) mới xuất hiện tại các thiền viện và ngay sau đó được coi là
tiêu biểu Thiền Trung Quốc nói riêng và Thiền Đông phương nói chung, và
được phổ biến rộng răi từ Đông sang Tây, mặc dầu có nhiều khuynh hướng
khác nhau.
Phật
học Đại Tự điển của cư sĩ Trù Ẩn Đinh Phúc Bảo bên Tàu (1873-1950) cho
biết Mục Ngưu Đồ xuất xứ từ Kinh A Hàm Agamas - Thánh điển Phật giáo
Nguyên thủy - nói về các cách chăn trâu, tức là cách tu tâm.
I- Về h́nh thức,
Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5
tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh. Có bộ
vẽ trâu đen hóa thành trâu trắng sau thời gian được chăn dắt. Nhưng
hầu hết các bộ đều vẽ trâu đen. Mỗi bộ đều có bài tụng kèm theo mỗi
tranh, nói về ư nghĩa từng giai đoạn.
Theo Thiền sư Daiseiz Teitaro Suzuki
– Linh Mộc Đại Chuyết Trinh Thái Lang, học giả có công lớn truyền đạt
Thiền tông sang Tây phương - trên thế giới có 4 loại Tranh Chăn Trâu,
theo Đại Thừa và Thiền Tông, mỗi bộ lại có nhiều loạt tranh khác nhau
(1) Bộ của Thiền sư Quách Am, (2) Bộ của Thiền sư Thanh Cư, (3) Bộ của
Thiền sư Jitoku Ki (Tzu-te Hui), và (4) Bộ của một tác giả khuyết
danh.
Bộ
Tranh Chăn Trâu của Thiền sư Quách Am (1100-1200) đời nhà Tống gồm 10
tranh, được Thiền sư Vân Thê Chu Hoàng đời nhà Minh đề tựa năm 1585,
mỗi tranh có một bài tụng của Thiền sư Phổ Minh, cũng từ Trung Quốc.
Bộ tranh này được Thiền sư danh họa Nhật Tensho Shubun – Châu Văn - vẽ
lại và nguyên bản toàn bộ được lưu giữ tại Đền Shokokuji, Kyoto, Nhật.
Bộ tranh này được phổ biến rộng răi khắp nơi, từ các Thiền viện Trung
Quốc và Nhật bản, cho đến Việt Nam và các quốc gia trên thế giới.
Bộ
Tranh Chăn Trâu đến Việt Nam lúc nào không rơ, nhưng năm 1720, Thiền
sư Quảng Trí thời vua Lê Dụ Tông (1706-1729), soạn tập Thập Mục Ngưu Đồ Luận Giải bằng
Hán văn để nhà vua thẩm định. Tập luận giải này được chép lại khoảng
thời Tự Đức(1847-1883) nhà Nguyễn. Năm 2,000, nhà xuất bản An Tiêm
Paris ấn hành nguyên tác chữ Hán, có đầy đủ tranh và bài tụng, do cư sĩ
Nhật Cao Trần Đ́nh Sơn biên soạn, phiên dịch và chú giải.
Theo Thiền luận của Thư viện Hoa Sen, có thể xem vài bộ Tranh Chăn Trâu trong cuốn Le Judo International của Liên đoàn Nhu đạo Pháp, do Jagarin sao lục, có phần dịch thuật các bài tụng và chú thích; trong Phật học Tinh hoa của Thu Giang Nguyễn Duy Cẩn; trong pho sách cổ Mục Ngưu Đồ bằng chữ Hán tại thư viện Chùa Xá Lợi Saigon; trong tập Học Làm Phật của Thầy Trương Lạc, chùa Linh Chưởng ấn hành năm 1964.
Thượng
tọa Thích Trí Quang trong bài Sơ lược về Tranh Chăn Trâu giới thiệu
Tranh Chăn Trâu của Ḥa thượng Kế Châu năm 1993, thời Vua Bảo Đại
(1925-1945) cho biết Hội Phật học Huế có khắc mộc bản và in lại năm
1933, và có bài viết bằng tiếng Pháp đăng trên tạp chí Viên Âm số 7 của
Hội nói về Mục Ngưu Đồ. Chùa Xá Lợi ở Sàig̣n cũng có 10 tranh vẽ Thập
Mục Ngưu Đồ. Ngoài ra, tại trụ sở Tam Tông Miếu đường Cao Thắng Saigon có Tranh Chăn Trâu vẽ sơn dầu ngay tại chánh điện.
Nhiều loạt tranh Chăn Trâu khác có thể xem trong Manual of ZenBuddhism, hay Essays in Zen Buddhism, hoặc The Ten Ox-herdingPictures của giáo sư Thiền học Daisetz Teitaro Suzuki, hoặc Zen Flesh, ZenBones
của Paul Reps và Nyogen Senzaki. Ngoài ra, có rất nhiều mạng lưới
điện tử viết bài và đăng Thập Mục Ngưu Đồ, quư vị có thể xem một số
ghi ở phần tài liệu tham khảo.
II- Về nội dung,
Thư viện Hoa Sen có đăng bản dịch Thiền Luận Essays in Zen-Buddhism
gồm ba tập do Trúc Thiên và Tuệ sỹ dịch, giải thích tất cả các bộ Tranh
Chăn Trâu. Dẫu có nhiều khuynh hướng khác nhau, song tất cả cùng
hướng về tu luyện tâm. Có thể nói nội dung Tranh Chăn Trâu giải đáp
cho câu hỏi trong Kinh Kim Cương " Vân hà hàng phục kỳ tâm?" (Làm sao
làm chủ được cái tâm?)
Tu
tâm, là t́m cách vén lộ tâm linh, dùng chính cái tâm lành vô lượng vốn
có sẵn trong ḿnh, chánh niệm, cứu xét, chế ngự cái tâm buông lung,
điều phục, luyện thiện căn và giữ giới nghiêm nhặt. Căn bản tự chăn là
giữ giới.
Sợi
giây ḷi tói buộc mũi trâu và cây roi là giới, nhằm ǵn giữ, điều
phục, tu luyện để tự phát, để đạt minh tâm kiến tánh, trí huệ sáng
suốt, không vọng niệm, phát hiện bồ đề tâm, bồ đề hạnh, bồ đề trí, tâm
hành bồ đề sự.
Đường
lối tu luyện đi từ việc sai tâm lành bắt tâm lung, triển khai tâm hư
tiến đến tâm vô tâm và b́nh thường tâm, ung dung an nhiên tự tại giữa
đời.
Mười Tranh Chăn Trâu,
như lời tựa của thiền sư Nyogen Senzaki trong tập Zen Flesh, Zen
Bones, mang ư nghĩa sâu rộng hơn thi ca hay hội họa. Đó là sự khai thị
giác nhộ tâm linh, hàm chứa trong bất kỳ thánh kinh nào của loài
người.
***
Dưới
đây là mười bài theo thể thơ mới do Trần thị LaiHồng thoát dịch từ
nguyên bản tụng và qua những bản dịch của các vị tiền bối Việt Nam và
Nhật bản nhưng vẫn theo sát nội dung những bài nguyên tụng và ư nghĩa
từng bức tranh.
Mười
bài tụng viết chữ Hán của Thiền sư Phổ Minh Trung Quốc, bản dịch tiếng
Anh của Thiền sư Kaku-An Nhật, và mười Tranh Chăn Trâu, thủy mạc của
Trần thị LaiHồng.
1- Tầm Ngưu
Mang mang bát thảo khứ truy tầm
Thủy khoát sơn dao lộ cánh thâm
Lực tận thần b́ vô xứ mịch
Đản văn phong thụ văn thiền ngâm
1- T́m Trâu
Rẽ cỏ rậm
luẩn quẩn loanh quanh
núi thẳm xanh xanh
sông sâu ngăn ngắt
đường xa lăng lắc
ta lao đao thân xác – kiếm t́m đâu?
chỉ nghe ngân nga vang vọng giọng ve sầu …
1- Searching for the Ox
Alone in the wilderness, lost in the jungle,
the boy is searching, searching!
The swelling waters, the far-away mountains,
and the unending path;
Exhausted and in despair, he knows not
where to go,
He only hears the evening cicadas singing in the maple-woods.
*
2- Kiến tích
Thủy biên lâm hạ tích thiên đa
Phương thảo li phi kiến dă ma
Túng thị thâm sơn cánh thâm xứ
Liêu thiên tị khổng chẩm tang tha
2- Thấy dấu
Ven rừng
bờ sông rành in dấu móng
vạch cỏ um tùm
đạp rạp bụi lùm
núi thẳm dẫu c̣n xa tăm tắp
hốt thấy ngươi
mũi hếch lên trời – thách thức
2-Seeing the traces
By the stream and under the trees, scattered are the traces of the lost
The sweet-scented grasses are growing thick – did he find the way?
However remote over the hills and far away the beast may wander
His nose reaches the heavens and none can conceal it
*
3- Kiến Ngưu
Hoàng oanh chi thượng nhất thanh thanh
Nhật noăn phong ḥa ngạn liễu thanh
Chi thử cánh vô hồi tị xứ
Sâm sâm đầu giác hoạch nan thành
3- Thấy Trâu
Cao vút trên cành
lảnh lót giọng hoàng oanh
nắng ấm
gió lành
bờ liễu xanh
ngươi chẳng đường lui ẩn
dậm cẳng ngoắc sừng bất khuất
3-Seeing the Ox
On a yonder branch perches a nightingale cheerfully singing
The sun is warm, and a soothing breeze blows, on the bank the willow are green
The ox is there all by himself, nowhere is he to hide himself
The splendid head decorated with stately horns – what painter can reproduce him?
*
4- Đắc Ngưu
Kiệt tận thấn thông hoạch đắc cừ
Tâm cường lực tráng tốt nan trừ
Hữu thời tài đáo cao nguyên thượng
Hựu nhập yên vân thâm xứ cư
4- Bắt Trâu
Kéo
Tŕ
Rị
Vật
Xỏ mũi
Quất roi
rượt đồi cao sương phủ
đuổi lũng thấp mây mù
Vất vả!
Chật vật!
rồi cũng bắt được ngươi!
4-Catching the Ox
With the energy of his whole being, the boy has at last taken hold of the ox
But how wild his will, how ungovernable his power!
At times he struts up a plateau,
When lo! He is lost again in a misty un-penetrable mountain-pass!
*
5- Mục Ngưu
Tiên sách thời thời bất ly thân
Khủng y túng bộ nhạ ai trần
Tướng tương mục đắc thuần ḥa dă
Ki tỏa vô câu tự trục nhân
5- Chăn Trâu
Túm chặt giây roi giắt bên người
ngại ngươi tuôn lấm bụi trần ai
vỗ về thân ái
nào d́u
nào dắt
ḥ ŕ ḥ tắt
ngươi thuần ḥa theo sát chân ta
5-Herding the Ox
The boy is not to separate himself with his whip and tether
Lest the animal should wander away into a world of defilements;
When the ox is properly tended to, he will grow pure and docile
Without a chain, nothing binding, he will by himself follow the oxherd
*
6- Kỵ Ngưu Quy Gia
Kỵ ngưu mạt trấp dục hoàn gia
Hà địch thanh thanh tổng văn hà
Nhất phách nhất ca vô hạn ư
Tri âm hà tất cổn thần nha
6- Cỡi Trâu về nhà
Cỡi lưng ngươi về nhà
nhàn nhă thả vi vu điệu sáo
một nhịp
một ca
ta ḥa đồng tâm ư
đâu nào tri âm?
6- Coming Home on the Ox's Back
Riding on the animal, he leisurely wends his way home
Enveloped in the evening mist, how tunefully the flute vanishes away!
Singing a ditty, beating time, his heart is filled with a joy indescribable!
That he is now one of those who know, need it be told?
*
7- Vong Ngưu Tồn Nhân
Kỵ ngưu dĩ đắc đáo gia san
Ngưu dă không hề, nhân dă nhàn
Hồng nhật tam can do tác mộng
Tiên thằng không đốn thảo đường gian
7- Quên Trâu C̣n Người
Vầng đông hồng
lồng lộng ba sào c̣n say mộng
liệng giây
quăng roi
Ơ …ngươi đâu rồi?
Ờ …mà ḷng ta lại thật thảnh thơi…
7-The Ox Forgotten, Leaving the Man Alone
Riding on the animal, he is at last back in his home.
Where lo! The ox is no more! The man alone sits serenely
Though the red sun is high up in the sky, he is still quietly dreaming
Under a straw-thatched roof are his whip and rope idly lying
*
8- Nhân Ngưu Câu Vong
Tiên sách nhân ngưu tận thuộc không
Bích thiên liêu khoát tín nan thông
Hồng lô diễm thượng tranh dung tuyết
Đáo thử phương năng hợp tổ tong
8- Tâm Vô Tâm
Giây roi – sợi ḷi tói
ngươi
và ta
thôi vướng mắc ràng buộc
tâm không tâm – tâm thả buông
thanh thản cội nguồn
Trời vẫn xanh
mà tin chẳng thông
trong ḷ hồng ánh lửa
tuyết giá khó đọng bông
8- The Ox and the Man Both Gone out of Sight
All is empty – the whip, the rope, the man, and the ox
Who can ever survey the vastness of heaven?
Over the furnace burning ablaze, not a flake of snow can fall
When this state of things obtains, manifest is the spirit on the ancient master
*
9- Phản bản Hoàn nguyên
Phản bản hoàn nguyên dĩ phí công
Tranh như trực hạ nhược manh lung
Am trung bất kiến am tiền vật
Thủy tự mang mang hoa tự hồng
9- Trở Về Nguồn Cội
Nhọc công t́m/thấy
trả lại không
như kẻ điếc mù trong am vắng
không t́m không bắt
mà thấy
ḍng sông dào dạt tự mênh mông
hoa an nhiên hơn hớn tự hồng
9-Returning to the Origin, Back to the Source
To return to the Origin, to be back at the Source – already a false step this!
Far better it is to stay at home, blind and deaf, and without much ado,
Sitting in the hut, he takes no cognizance of things outside
Behold the streams flowing – whither nobody knows,
And the flowers vividly red – for whom are they?
*
10- Nhập Triền Thùy Thủ
Lộ hung tiền túc nhập triển lai
Mạt thổ đồ khôi tiếu măn tai
Bất dụng thần tiên chân bí quyết
Trực giáo khô mộc phóng hoa khai
10- Vào Chợ Đời
Ngực trần
chân không
bùn đất lội chợ đời
sảng khoái ngoác miệng cười
đâu cần thần tiên bí quyết
cành khô nẩy nụ tươi
10-Enter the City with Bliss-bestowing Hands
Bare-chested and bare-footed, he comes out into the market-place
Daubed with mud and ashes, how broadly he smiles!
There is no need for the miraculous power of the Gods,
For he touches, and lo! The dead trees are in full bloom!
Sinh nhật thứ 75 của Vơ Đ́nh
Hoa Bang, tháng X/XI - 2008
Trần thị LaiHồng
Tài liệu tham khảo và đọc thêm
- Bách khoa Toàn thư mở Wikipedia, Thập Mục Ngưu Đồ, Google
- Daiseiz Teitaro Suzuki, Essays in Zen Buddhism, Rider& Company, London, 1961; Manual of Zen Buddhism, Eastern Buddhism Society, 1935
- Trúc Thiên và Tuệ Sỹ, Thiền Luận, dịch Essays in Zen Buddhism, Phật học Viện Quốc tế xuất bản, Paris, 1989, có đăng trên Thư viện Hoa Sen http://www.thuvienhoasen.org/thienluan.htm